Đàn Bến Tre Danh cầm cải lương: Văn Vĩ, Văn Giỏi, Bảy Bá, Ba Tu





NHỮNG DANH CẦM CÓ CHỮ LÓT LÀ “VĂN” :

Nhiều danh cầm hoặc nhạc sĩ có tên tuổi trong giới âm nhạc Tài tử - Cải lương, cớ chữ lót là chữ “Văn'' như: Văn Vĩ, văn Giỏi, Văn Còn, Văn Hải, Văn Môn, Văn An, Văn Mách, Văn Hậu, Văn Lắm... Vì trang viết giới hạn chỉ giới thiệu hai đại danh cầm Văn Vĩ và Văn Giỏi.


* ĐỆ NHẤT DANH CẦM VĂN VĨ: ĐỂ ĐỜI CHỮ “XANG” VÀ DÂY “BÁN NGÂN GIANG
 
Xưa nay tạo hóa thường ban cho những người có tật thì kèm theo cái tài. Dường như những người có cảnh đời bất hạnh thường cố gắng vượt lên số phận. Đại danh cầm Văn Vĩ khuyết thị khi lên hai tuổi (1929-1985). ông sinh ra tại Cần Giuộc - Chợ Lớn (nay là Bình Chánh -TPHCM), bảy tuổi học đờn gáo, sau đó học đờn kìm, guitar, violon... Nhạc cụ nào ông cũng thành thạo, nhưng riêng guitar phím lõm là nhạc cụ đã đưa ông lên hang ''Đệ nhất danh cầm''. ông có kỹ thuật nhấn chữ “xang'' Vọng cổ trên cả tuyệt vời mà cho đến bây giờ chưa một ngón đờn nào vượt qua nối. ông đã đờn cho Đài Pháp Á từ năm 1956, hang dĩa thanh Long năm 1957, sau đó đờn cho gánh Minh Tinh, Kim Chung, Họa Mi, Việt Nam cổ nhạc kịch đoàn... Sau năm 1975, ông mở lò dạy đàn ca tại gia, khá nhiều học trò của ông đã thành danh trong giới như: nhạc sĩ Văn Mách, Văn Hải, Văn Bền, Văn An, Văn Hậu...ca sĩ có Tuấn Anh, Trần Kim Lợi, Hồng Phượng... Bên cạnh đó ông đờn chánh cho các Đài phát thanh và truyền hình, guitar phím lõm tài cao thấp, hay dở là ở kỹ thuật nhấn chữ ''xang'', ông có lối nhấn chữ ''xang'' rất độc đáo. Chỉ ở một cung ''xang'' ông nhấn ra nhiều âm biến hóa: xang xang, xang xang, xang xang, xang xang xang xang... nghe điệu đàn càng nức nở - mùi mẫn, tựa hồ như tiếng lòng của ông gởi đến bạn tri âm, nhưtiếng của người có tâm sự kể lể than van vậy. Văn Vĩ còn có độc chiêu là đờn dây bán Ngân giang, với phong cách thản nhiên dàn trải ngón đờn rất hài hòa trạm - bổng - nhặt - khoan, du dương - huyền hoặc, tiêu biểu là ông đã độc tấu sáu câu Vọng cổ 32, đờn độc chiếc cho cố NS Út Trà Ôn ca trong bài ''Đài hoa dâng Bác'', Minh Vương ca bài ''Lòng dạ đàn bà''... là những tác phẩm thuộc hàng đỉnh cao nghệ thuật...
Đầu thập niên 60, danh cầm khiếm thị tài ba Văn Vĩ - với tiếng đàn bay bướm tuyệt diệu đã làm say mê hàng triệu khán thính giả mộ điệu nhạc tài tử cải lương. Sự có mặt của danh cầm thời đó được các bầu sô đại nhạc hội xem trọng, là nhạc công tạo nên các tiết mục ăn khách.

Văn Tài, con trai út của nhạc sĩ Văn Vĩ, kể lại cuộc đời cha mình: "Thời niên thiếu, khi ba tôi vừa biết đàn thì cũng là lúc cô Út Bạch Lan mới biết ca, cả hai người cùng có một hoàn cảnh thiếu đói như nhau, phải đem tiếng đàn lời ca phối hợp đi... ăn xin. Ăn xin bằng ca hát lúc bấy giờ luôn gặp khó khăn, bị lính mã tà rượt đuổi, bắt bớ, hăm he. Ba tôi và cô Út phải bỏ xứ qua tận bên Miên tìm đất sống.

Tại xứ lạ quê người, cha tôi và cô Út Bạch Lan gặp được bác Hai Minh, cũng đồng hội đồng thuyền đi bán tiếng đàn lời ca để đổi lấy chén cơm và kết hợp lại thành bộ ba. Cha tôi và bác Hai Minh (sau này giàu lắm, có hiệu ảnh lớn tại ngã sáu Sài Gòn lấy tên là hiệu ảnh Quang Minh) đánh đàn, cô Út ca. Nào ngờ về sau cả ba người đều nổi danh, thành đạt, được mọi người yêu mến. Trong cuộc đời làm nhạc sĩ cho các đoàn hát, cũng có lúc cha tôi phải tủi thân với nghề khi gặp phải những tình huống bi đát xảy đến. Trong đó có một vụ gây xúc động mạnh trong lòng khán giả: một anh kép chánh trong đêm hát ca rớt nhịp, cha tôi "vớt" không kịp bị anh ta dùng cây kiếm (đang hát) đâm rách nát thùng loa khuếch đại âm thanh và chửi bới cha tôi không tiếc lời...".

Nhạc sĩ Văn Vĩ tên thật là Đinh Văn Dậm, sinh năm 1929 tại xã Bình Đăng (nay là xã Bình Hưng) huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Năm lên 3 tuổi, Dậm bị mù mắt do chứng bệnh đậu mùa. Tên Đinh Văn Dậm được đổi lại là Văn Vĩ là do một người thầy thuốc bắc trị bệnh đậu mùa đặt cho theo tên một vì sao. Năm lên 7 tuổi, cậu theo cha đi định cư ở tỉnh Bạc Liêu. Lúc này Văn Vĩ đã tự đàn được một số bài bản ngắn bằng đàn cò líu (đàn cò loại nhỏ). Vài năm sau, gia đình Văn Vĩ trở về Thuận Đông. Tại nơi ở thứ ba, Văn Vĩ học đàn kìm với thầy Bảy Thừa, và trau chuốt thêm ngón đờn cò, học thêm nhạc với thầy Tư Lai.

Lúc ngón đàn kìm của Văn Vĩ trở nên tươi mát, giòn giã, đủ sức tham gia vào các buổi đờn ca tài tử, Văn Vĩ quyết tiến thêm một bước nữa: sang học đàn guitar với thầy Tư Thìn và thày Tư A ở Thủ Thiêm. Văn Vĩ vẫn chịu khó học thêm với các bậc đàn anh khác nữa là nhạc sĩ Ba Xây, thày Mười Út, thày Chín Thành...

Đến năm 14 tuổi, nhạc sĩ Văn Vĩ được nhận vào đàn cho sân khấu cải lương đầu tiên là gánh Minh Tinh, những bước tiếp theo là lên TP HCM đàn cho quán Lạc Cảnh cùng các nhạc sĩ tài danh như Bảy Hàm, Ba Xây, Tám Bằng... Nghệ danh Văn Vĩ được giới hâm mộ chú ý từ đó.

Năm 16 tuổi (1945), Văn Vĩ gia nhập các nhóm đàn ca tài tử ở TP HCM. Đến năm 1950, ông được các nhạc sĩ Bảy Hàm, Hai Biểu giới thiệu vào làm ở Đài phát thanh Pháp Á (Ban Việt Nam cổ nhạc kịch đoàn do tài tử Tám Thưa làm trưởng ban), đồng thời cộng tác với các quán ca nhạc Lệ Liễu ở Thị Nghè; ở khu Kim Chung và quán Họa Mi của cô Năm Cần Thơ trong Đại Thế Giới...

Qua nhiều năm dài lận đận rày đây mai đó mang tiếng đàn tìm cuộc sống, mãi đến năm 1964 Văn Vĩ mới tậu được căn nhà trong một ngõ hẻm đường Phan Thanh Giản trên đất Sài thành, và mở lớp dạy đờn ca tài tử cải lương. Một số học trò của nhạc sĩ Văn Vĩ đã thành danh trên hai lĩnh vực đàn và ca. Đàn có nhạc sĩ khiếm thị Văn Bền, Văn Hải, Minh Thảo, Huỳnh Khải và ba đứa con trai của ông là Văn An, Văn Hậu (đã mất) và Văn Tài. Về ca có Út Bạch Lan, Thanh Hương, Minh Trung, Vương Linh, Hữu Tài, Tài Lương, Tấn An, Hoài Thanh, Thu Huệ...

Nhạc sĩ Văn Vĩ mất năm 1985, để lại trong kho tàng cổ nhạc Việt Nam một phong cách diễn tấu xuất thần, tài ba, hiếm có xưa nay.




* DANH CẦM VĂN GIỎI: LUÔN SÁNG TẠO NHỮNG CÁCH MỚI:
 
Đại danh cầm Văn Giỏi là một nhạc sĩ khi nổi danh thì bị khiếm thị. Ông sinh ra ở Cai Lây - Tiền Giang (1945), ông học nghề từ nhỏ, sử dụng thành thạo nhiều loại nhạc cụ như: guitar phím lõm, từ những năm 1965-.1970, đờn cho một số ban ca kịch Cải lương của Sài Gòn và Đài phát thanh, hãng dĩa. Sau năm 1975, ông mở lò dạy học trò tại gia hơn 10 năm và đã có hang ngàn học trò trên mọi miền đất nước cũng như hiện ở hải ngoại khá đông. 1975 đến 1990 là 15 năm rực rỡ nhất của ông, và chính giai đoạn này tên tuổi ông nổi bật nhất trong làng danh cầm cổ nhạc Nam bộ. Một liên danh Văn Giỏi - Thanh Hải ra đời tung hoành trên Đài TNND - TPHCM, Đài THTP, các hãng băng từ cả hàng ngàn chương trình ca cổ và Cải lương. Đặc biệt, ông đã sáng tác để lại cho đời 2 tác phẫm nổi tiếng được ứng dụng trong cải lương rất phổ biến từ bao năm qua, đó là Điệp Khúc Phi Vân và Đỏan Khúc Lam Giang.

Nét riêng của văn Giỏi trước tiên là kiểu đờn ''chân dây'' rất phóng khoáng và thu hút, phá nét, sáng chế nhiều láy đờn mới mượt mà duyên dáng, với những âm hưởng rộn ràng, trẻ trung hơn người mà trước nay chưa ai có. Phong cách này đã thu hút hàng ngàn học trò theo học ông và biết bao người biết đờn chuyên và không chuyên đã ảnh hưởng, khi đờn ít nhiều có bóng dáng ''chữ mới'' của Văn Giỏi trong đó. Những sáng tạo bức phá ấy của Đại danh cầm Văn Giỏi đến nay vẫn còn hấp dẫn trong giới và người mộ điệu như một giá trị bất biến vậy.

Những năm gần dây ông chỉ đờn cho các cuộc thi vòng xếp hạng – trao giải như giải ''Bông Lúa Vàng'', ''Giọng ca Cải lương hàng tuần''... Phong cách diễn tấu đĩnh đạc, sâu lắng hơn trước đây, âm lượng mượt mà duyên dáng vẫn còn đầy sức thu hút.



NHỮNG DANH CẦM CÓ CHỮ LÓT LÀ SỐ THỨ TỰ

Ngoài những danh cầm hay nhạc sĩ có chữ lót là ''Văn'' còn khá nhiều danh cầm và nhạc sĩ khác có chữ lót theo số thứ tự như: Đệ nhất danh cầm đờn tranh Bảy Bá, Đệ nhất vĩ cầm (violon) Hai Thơm, Ba Tu, Tư Thiên, Năm Cơ, Ngọc Sáu, Tư Huyện, Bảy Phát, Chín Trích, Mười Tiến, Năm Hưng, Hai Phi Long, Bảy vân, Bảy Dư... Nhiều danh cầm trong số này đã quá cố, ít người tuổi tác cao niên. Trong bài viết này xin chỉ giới thiệu hai danh cầm Bảy Bá và Ba Tu.

* Đệ nhất thập lục huyền cầm Bảy Bá:
Đệ nhất thập lục huyền cầm (đờn tranh) Bảy Bá (NSUT) còn có bút danh là soạn giả Viễn Châu. Quê ông ở Trà Cú - Trà Vinh, xuất thân từ gia đình nhạc tài tử nên ông đã làm quen với nghiệp cầm khá sớm. Một thời gian theo gánh hát, phụ thân của ông bắt về cưới vợ để giữ chân ông ở nhà , nhưng không được, ông mê nghề và lên Sài Gòn để lập nghiệp (1948, 1949).

Danh cầm Bảy Bá trong lien danh ''Cơ- Bá” một thời vang bóng lẫy lừng trên sân khấu Cải lương Sài Gòn, Đài phát thanh, hãng dĩa trước năm 1975. Phải nói rằng tài năng và tên tuổi các cụ là một dấu son trong lịch sử Cải lương không bao giờ mờ nhạt và cho đến bây giờ vẫn chưa có một liên danh nào thay thế nổi. Cũng xin nói qua về lối đờn sến rất độc đáo: vồn vã, xôm tụ, khúc chiếc... cho đến bây giờ hầu hết những ngón đờn sến chuyên và không chuyên đều ảnh hưởng phong cách của ông. Rất tiếc, danh cầm Năm Cơ mất sớm (1978), là một mất mát lớn cho trong giới vì ông chưa kịp để lại cho đời một tác phẩm độc tấu nào.

Riêng danh cầm Bảy Bá, có thể nói là một ''đại thụ'' còn sót lại của thế hệ danh
cầm trong bộ ba đó. Năm 12 tuổi ông đã đờn thành thạo tranh và guitar phím lõm, tham gia vào phong trào đờn ca Tài tử ở quê nhà (Trà Cú-Trà Vinh), sau đó theo gánh hát (1943) rồi bị Pháp bắt bỏ tù. Sau khi ra tù ông tiếp tục theo các đại ban cải lương cho đến thập niên 80 của thế kỷ trước, khi Cải lương xuống dốc ông mới dừng bước và tiếp tục công việc sáng tác kịch bản Cải lương và Vọng cổ. Nếu không được thưởng thức ngón đờn tài hoa của ông trên sân khấu Cải lương thuở xa xưa, thì chúng ta hãy tìm những băng dĩa còn lưu lại mà nghe... Một ngón đờn mượt mà qua từng âm thanh đầy gợi cảm, lúc thì du dương, lúc thì róc rách như tiếng của dòng suối thì thầm, lúc véo von như tiếng sơn ca, lúc thì trầm lắng như tiếng lòng người đầy tâm sự... Có lần tôi đến nhà và được nghe ông dạo lại đờn tranh (lúc ông đã ngoài 70) vẫn còn phong độ không khác xưa, vẫn phong cách diễn tấu trầm tĩnh, các ngón tay mềm mại chạy trên duyên dáng như ngón tay của con gái. Một độc chiêu là ông ''mổ ngón'' chạy chữ chậm rãi, nghe tiếng đờn vừa dịu êm, từ tốn, sâu lắng... Bốn ngón tay trái và trỏ của ông mổ đều đặn trên hàng dây đờn, nhưng tiếng đờn thì hàm chứa đầy kịch tính, có nghĩa là lúc bổng trầm, khoan nhặt tạo âm sắc muôn màu trong tiếng nhạc của mình...

Thân thế và khởi nghiệp

Ông tên thật là Huỳnh Trí Bá, sinh ngày 21 tháng 10 năm 1924 tại xã Đôn Châu, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Xuất thân trong gia đình vọng tộc, thân phụ là Hương cả, là con thứ sáu trong gia đình, ông còn có tên là Bảy Bá theo thông lệ người miền Nam.
Thuở nhỏ, ông học quốc văn ở trường làng và học Hán văn với những bậc túc nho ở tại nhà. Ngoài ra, khi còn học ở trường, ông đã mê đờn ca, cả tân lẫn cổ, thường có mặt trong các buổi đờn ca tài tử, hoặc cùng bạn bè tổ chức đờn ca. Ông mày mò những ngón đờn học lỏm qua đĩa hát nhựa cũng như các nhóm đờn ca tài tử ở làng quê. Đến năm 19 tuổi, ông đàn thạo các loại đàn tranh, violon, guitar và được nhiều người khen ngợi.
Năm 1942, ông tham gia Ban cổ nhạc Ðài Phát thanh Pháp Á Sài Gòn. Tuy nhiên, dấu ấn đầu tiên trong sự nghiệp văn hóa nghệ thuật của ông là truyện ngắn đầu tay “Chàng trẻ tuổi” được đăng trên báo Dân Mới và bài thơ “Thời mộng” được đăng trên báo Tổng xã mới trong năm đó.
Cuối năm 1943, ông theo đoàn Tố Như lưu diễn. Hai tháng sau, ông tham gia gánh ca kịch của Năm Châu ra Hà Nội lưu diễn. Trên bước đường nghệ thuật của mình, ông có cơ hội tiếp xúc với các nghệ sĩ tài danh bấy giờ như Năm Châu, Lê Hoài Nở, Trần Hữu Trang, Duy Lân... và học hỏi được nhiều kỹ năng về tư duy sáng tác.
Tuy nhiên, "chuyến lưu diễn" của ông nhanh chóng kết thúc khi đoàn vừa về tới Sài Gòn thì một người anh kế của ông là Huỳnh Thanh Tòng bắt ông về quê, không cho theo đoàn hát nữa.

Bước gian truân của người nghệ sĩ

Năm 1945, Pháp nổ súng tái chiếm Đông Dương. Bấy giờ, ông đã viết vở cải lương đầu tay “Hồn chiến sĩ”, với nội dung cổ vũ cho cuộc Kháng chiến chống Pháp. Vở tuồng đã được Ủy ban Kháng chiến hành chánh quận Trà Cú (lúc bấy giờ là quận Trần Chí Nam) tổ chức biểu diễn bán vé để góp quỹ kháng chiến.
Năm 1946, quân Pháp kiểm soát phần lớn vùng Trà Vinh. Người anh Huỳnh Thanh Tòng của ông bị quân Pháp bắt và bị bức tử ở đồn Long Toàn (Trà Vinh). Để tránh bắt bớ do từng cầm súng chống Pháp, ông bỏ xứ Đôn Châu lên Vĩnh Long tá túc trong nhà một người bạn rồi sau đó phiêu bạt lên Sài Gòn, tìm đến đoàn Năm Châu (lúc này đổi tên là đoàn Con Tằm) để nương nhờ và theo nghiệp nghệ thuật cải lương từ đó.
Tại Sài Gòn, ông bí mật hoạt động cho Ban công tác thành ở Sài Gòn. Không lâu sau, ông bị người Pháp bắt giữ cùng với 4 người khác để khai thác. Mặc dù không đủ bằng chứng kết tội, ông vẫn bị giam giữ mà không xét xử, sau đó bị đày đi an trí ở Cẩm Giang (Tây Ninh).
Mãi đến cuối năm 1949, ông mới được trả tự do. Ông mới trốn thoát và trở lại Sài Gòn, lại tìm đến đoàn Con Tằm với cái tên mới Trương Văn Bảy. Năm 1950, ông viết vở cải lương “Nát cánh hoa rừng” với bút danh Viễn Châu, phóng tác từ truyện đường rừng của Khái Hưng. Đây là vở cải lương đầu tiên của ông được đoàn Việt kịch Năm Châu trình diễn trên sân khấu đại ban tại Sài Gòn cũng trong năm 1950, được công chúng hoan nghênh nhiệt liệt.
Từ đó, tên tuổi Viễn Châu bắt đầu được giới mộ điệu chú ý. Các tác phẩm biểu diễn đàn tranh của ông được nhiều hãng đĩa thu thanh và phát hành liên tục. Đương thời, ngón đờn tranh Bảy Bá được xem là một trong 3 ngón đờn cổ nhạc đã được giới mộ điệu đánh giá cao và coi như bậc thầy là Năm Cơ (đàn sến) - Bảy Bá (đàn tranh) - Văn Vỹ (guitar phím lõm). Ngoài đoàn Việt kịch Năm Châu, ông còn cộng tác với các đoàn hát: Kim Thanh Út Trà Ôn (1955), Thanh Tao (1958), Thanh Nga (1962), Dạ Lý Hương (1969), Tân Hoa Lan (1969). Đồng thời, ông còn cộng tác với các hãng đĩa Việt Nam (1950), Kim Long (1951), Việt Hải (1953), Thăng Long (1954), Sống Mới (1968), Nhạc ngày xanh (1969), Hồn nước (1973, của Ngọc Chánh sản xuất băng từ),…
Sau năm 1975, ông cộng tác với Đoàn Văn công (1975), hãng băng Sài Gòn Audio (1978) và nhiều đoàn hát ở các tỉnh. Năm 1984, ông cùng đoàn nghệ thuật 284 lưu diễn ở các nước Tây Âu như: Đức, Bỉ, Pháp, Ý.
Cả cuộc đời ông từ năm 1950 trở đi toàn tâm ý dồn hết cho nghệ thuật cải lương. Mặc dù tuổi cao và bệnh trọng, nhưng ông vẫn miệt mài sáng tác. Ông đang hoàn tất quyển hồi ký về cuộc đời và sự nghiệp của mình. Theo một học trò của ông, Nghệ sĩ Ưu tú Phương Quang, ông từng dặn con trai mình là nhạc sĩ Trương Minh Châu: “Ba chết, nhớ bỏ vô quan tài một mớ giấy, bút để xuống đó ba viết bài vọng cổ”.

Cha đẻ của Tân cổ giao duyên

Ông được mệnh danh là vua của các vị vua cải lương, "là người tạo danh cho các nghệ sĩ", bởi qua nhiều sáng tác của ông, nhiều nghệ sĩ khi thể hiện đã được cái ưa thích để đông đảo người xem chú ý hơn, ví dụ như: Mỹ Châu với bài "Hòn vọng phu", Út Trà Ôn với "Tình anh bán chiếu",... Bên cạnh đó, ông cũng sáng tác ra nhiều bài vọng cổ hài hước mà sau này được nhiều gương mặt nổi danh như nghệ sĩ Văn Hường, Hề Sa,...
Một sáng tạo của Viễn Châu có ý nghĩa đặc biệt trong lĩnh vực nghệ thuật là việc ghép tân nhạc vào bản vọng cổ mà ông gọi là “Tân cổ giao duyên”. Bản Tân cổ giao duyên đầu tiên của ông có tựa “Chàng là ai” (tân nhạc Nguyễn Hữu Thiết), sáng tác từ năm 1958, do Lệ Thủy ca vào năm 1964. Dù thể loại mới này đã gây ra nhiều tranh cãi trên báo chí thời bấy giờ, nhưng sức tồn tại của nó cũng như sự hâm mộ của công chúng là bằng chứng cụ thể nhất đối với Tân cổ giao duyên.

Vinh danh

Ông được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú năm 1988 và Nghệ sĩ Nhân dân năm 2012 để tôn vinh những đóng góp và thành tựu nghệ thuật của ông.

Một số tác phẩm tiêu biểu

Hơn 50 năm sáng tác, ông đã để lại một kho tàng tác phẩm đồ sộ. Trên 50 vở cải lương đã được trình diễn trên các sân khấu đại ban và trên 2000 bản vọng cổ đã được các hãng đĩa, băng thu thanh và phát hành. Toàn bộ tác phẩm đều đã được đăng ký bản quyền. Dưới đây chỉ là một số tác phẩm tiêu biểu:

Tuồng cải lương

  • Nát cánh hoa rừng
  • Tình mẫu tử
  • Đời cô Nga
  • Sau bức màn nhung
  • Bông ô môi
  • Chuyện tình Hàn Mặc Tử
  • Chuyện tình Lan và Điệp
  • Quân vương và thiếp
  • Qua cơn ác mộng
  • Nợ tình
  • Hoa Mộc Lan
  • Con gái Hoa Mộc Lan
  • Hai nụ cười xuân
  • Ai điên ai tỉnh
...

Bản vọng cổ

  • Tình anh bán chiếu
  • Sầu vương ý nhạc
  • Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà
  • Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài
  • Tần Quỳnh khóc bạn
  • Lá trầu xanh
  • Lòng dạ đàn bà
  • Lan và Điệp
  • Hàn Mặc Tử
  • Tâm sự Mai Đình
  • Tâm sự Mộng Cầm
  • Xuân đất khách
  • Tu là cội phúc
  • Gánh nước đêm trăng
  • Đêm khuya trông chồng
  • Mẹ dạy con
  • Phạm Lãi biệt Tây Thi
  • Phàn Lê Huê
  • Tự Đức khóc Bằng Phi
  • Ai ra xứ Huế
  • Đêm tàn Bến Ngự
  • Hán Đế biệt Chiêu Quân
  • Dương Quý Phi
  • Kiếp cầm ca
  • Đời vũ nữ
  • Các bài vọng cổ hài viết riêng cho Văn Hường
...


* Đệ nhất nguyệt cầm Ba Tu – Phong cách “Quân tử cầm”
 
Danh cầm Ba Tu, xuất thân từ cái nôi nhạc Lễ và Tài tử Nam bộ (huyện Cần đước - Long An). Sử dụng nhiều nhạc cụ như kìm, cò, tranh, guitar lõm... nhưng đờn kìm là cây chính của ông. Ngón đờn kìm tài hoa ở cả ba trường phái nhạc lễ, tài tử và cải lương, xứng danh ''Đệ nhất nguyệt cầm'' thời nay. Trong giới cũng không hề nghe ai phản đối. Riêng về Cải lương, ông từng là thầy đờn của nhiều gánh trước năm 1975 vì thời ấy, đờn kìm giữ song lang và làm nhạc trưởng “gọi là thầy đờn''. Sau năm 1975, ông cũng tham gia dàn nhạc cổ cho nhiều đoàn Cải lương TPHCM, nhưng từ khi phong trào đờn ca Tài tử được phục hưng thì ông chuyên làm cố vấn và giám khảo cho nhiều cuộc liên hoan, hội thi từ cấp tỉnh, thành và toàn quốc. Hiện nay trong giới cả ba độ tuổi: lão-trung-trẻ có nhiều ngón đờn kìm hay, nhưng hầu hết không ai có nét riêng mà hầu như ít nhiều đều ảnh hưởng ngón chữ đờn của danh cầm Ba Tu, chodù học trực tiếp hay gián tiếp.

Bởi lẽ, tuổi đời ông Ba Tu đã bảy mươi ba, tuổi nghề cũng gần sáu mươi mà ngón đờn vẫn trẻ trung, tươi mượt như có một ma lực đủ sức chinh phục mọi người. Thông thường mỗi người có một sở trường diễn tấu thượng cổ, thể đều Bắc hay Nam - Oán chỉ giỏi có một, còn danh cầm Ba Tu coi như thể đều nào trong nhạc Tài tử - Cải lương cũng đều là sở trường với ngón đờn tài hoa của ông. Theọ ông, khi cầm đờn là phải có ''tâm'' coi là “tâm tấu''. Nhấn nhá từng chữ nhạc chuẩn xác, phải tạo được màu âm rắn rỏi và giao cảm xúc mình vào đó thì đờn kìm nghe mới có ''hồn''. Tư thế ngồi đờn kìm cũng khác với các nhạc cụ khác, đòi hỏi sự rèn luyện từ ngón đến phong cách: cách ôm đờn, khảy tay tim, nhấn cho chín chữ.. tư thế đĩnh đạc được ví như người quân tử, nên đờn kìm còn gọi là ''Quân tử cầm'' là vậy và người đờn phải khổ luyện cho thành phong cách ấy thì mới được mệnh danh này.

Danh cầm Ba tu khi cầm đờn kìm là như thế, ông nhấn chữ ''xang'' nức nở ''đổ hột” như người có tâm sự kể lể, Vọng cổ thì nhiều chữ mới, láy mới duyên dáng, các thể điệu Bắc thì hùng tráng, Nam - Oán mùi mẫn, nhưng kỹ thuật nhấn nhá, chạy chữ chẻ, xốc nhịp thì vô cùng mắc khúc đầy kịch tính trong âm thanh huyền hoặc từ tâm tấu của ông... Những tinh hoa đó, ông đã để lại trong nhiều chương trình hoà tấu và độc tấu ở các Đài PT&TH, đặc biệt gần đây ông còn độc tấu đờn kìm cho bộ dĩa 20 bản Tổ nhạc Tài tử cho tỉnh Long An (quê hương ông) để bảo tồn nguồn gốc. Phải chăng danh cầm Ba Tu đã để lại cho đời một công trình mà từ trước đến nay có một không hai về dòng nhạc này.



Album hòa tấu cổ nhạc cải lương do các nghệ sĩ Bảy Bá, Năm Cơ, Văn Vĩ, Ngọc Sáu và Hai Thơm thể hiện. CD được thu âm trước năm 1972.

No comments:

Post a Comment

Bài đăng

Nhạc cổ

_______________

Nhạc tân

________________

Nhạc ngoại

_____________________

Âm nhạc

_____________________

Học nhạc

_____________________